1.Viêm ống tai ( Viêm tai ngoài) là tình trạng viêm xảy ra quanh ống và vành tai. Ống tai là một phần dẫn từ ngoài tai vào tới màng nhĩ. Viêm ống tai có thể nguyên nhân do nhiễm khuẩn, dị ứng, hoặc các vấn đề khác của da. “Viêm tai bơi lội” là tên dùng để chỉ viêm ống tai thường xuyên xảy ra ở những người bơi lội thường xuyên.
-Viêm ống tai khác với viêm tai giữa. Khi nhân viên y tế nói viêm tai, là thường sử dụng để nói viêm tai giữa.
-Viêm ống tai có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi [1]. Khoảng 10% người bệnh mắc viêm ống tai trong cuộc đời. Tỉ lệ hàng năm vào cấp cứu vì viêm ống tai ở Mỹ cao nhất ở trẻ lớn, và giảm dần theo lứa tuổi [2]:
– 7% trẻ từ 0 đến 4 tuổi
– 19% trẻ từ 5 đến 9 tuổi
– 16% trẻ từ 10 đến 14 tuổi
– 9% từ 15 đến 19 tuổi
– 5% trên 20 tuổi.
Viêm ống tai thường xảy ra vào mùa hè nhiều hơn so với các tháng mùa đông [1]. Điều này có thể do liên quan đến việc tăng độ ẩm xung quanh và tham gia vào hơn các hoạt động nước ngoài trời.

– Bơi lội hoặc tiếp xúc với nước là một yếu tố nguy cơ được chứng minh cho thấy tăng nguy cơ viêm ống tai. Độ ẩm quá mức dẫn đến sự lão hóa da và phá vỡ hàng rào bảo vệ da, thay đổi hệ vi sinh của ống tai thành Gram âm
– Bất cứ chấn thường nào như: do làm sạch tai quá mức ( chòi tai), gãi mạnh-nhiều vào ống tại không chỉ loại bỏ ráy tai mà còn tạo ra các vết chày xước dọc theo các lớp da mỏng trong ống tai, cho phép vi khuẩn tiếp cận với mô sâu hơn. Ngoài ra, một phần của tăm bông hoặc khăn giấy có thể bong tách ra bỏ lại trong tai. Những dị vật này có thể ta ra một phần và mưng mủ, gây ra phản ứng nhiễm trùng nghiêm trọng.
– Các thiết bị bịt ống tai như máy trợ thính, tai nghe hoặc mũ lặn có thể dẫn đến viêm ống tai.
– Viêm da tiếp xúc có thể dẫn đến viêm ống tai ( như tăm bông, xà phòng, dầu gội,…)
– Các tình trạng bệnh lý nền ở da có thể dẫn đến viêm ống tai ( bệnh vảy nến, viêm da dị ứng)
– Xạ trị có thể gây ra thay đổi các lớp da ở ống tai, thiếu máu cục bộ, thay đổi sản xuất ráy tai và di chuyển sâu vào biểu mô, dẫn tới viêm tai.

Ống tai là nơi tập trung một số vỉ khuẩn hiếu khí và kỵ khí, với hơn 90% là gram dương.
Các vi khuẩn gây viêm ống tai thường gặp nhất [7] là P. aeruginosa (38%), S. cholermidis (9%), S. aureus ( 8%). Tuy nhiên, có thể gặp một số gram dương và gram âm khác. Các vi khuẩn kỵ khí cũng chiếm từ 4-25%. Một số trường hợp bệnh nhân có thể nhiễm khuẩn kết hợp giữa vi khuẩn hiếu khí và kỵ khí.
Nhiễm nấm cũng thường xảy ra viêm ống tai ngoài, từ 2 đến 10% các số ca bệnh. Nấm candidal là tác nhân thường gặp hơn ở bệnh nhân dùng máy trợ thính [8].
Nhiễm đa vi khuẩn có thể lên tới 1/3 số ca.

– Đau tai , đặc biệt khi bị kéo hoặc di chuyển
– Ngứa tai
– Chảy dịch hoặc chảy mủ tai
– Khó nghe
– Sốt
Mức độ nặng của viêm ống tai phụ thuộc vào các triệu chứng và khám thực thể [9]
– Bệnh nhẹ được đặc trưng bởi sự khó chịu và ngứa nhẹ. Có thể có phù nề nhẹ.
– Bệnh mức độ vừa đặc trưng bởi mức độ đau tai trung bình, ngứa. Gây bít tắc một phần ống tai
– Bệnh nặng được đặc trưng bởi sự đau tai dữ dội, phù nề toàn bộ tai. Thường có ban đỏ ngoài quanh tai, nổi hạch, và sốt.

